Thực tế thì trước kia, phương pháp sinh mổ thường chỉ được áp dụng khi thai nhi gặp bất thường, không thể chào đời bằng phương pháp sinh tự nhiên. Tuy nhiên nghiên cứu chỉ ra rằng tỷ lệ những ca không thể sinh tự nhiên đang tăng lên, từ 30/1000 ca vào năm 1960 thành 36/1000 ca ở thời điểm hiện tại. Nhìn tưởng ít, nhưng đó là mức tăng đến 20%. Ngày nay, càng nhiều Mẹ lựa chọn sinh mổ (hay mổ lấy thai) như vậy, tuy nhiên việc sinh mổ được hiểu như thế nào thì rất ít sản phụ hiểu rõ. Chúng ta cùng tìm hiểu những điều cơ bản nhất về sinh mổ trong bài viết dưới đây.
1- Mổ lấy thai là gì?
Mổ lấy thai (sinh mổ, mổ bắt con, mổ Cesar) là một thủ thuật trong y khoa nhằm phẫu thuật lấy thai nhi, nhau thai, màng ối bằng một vết mổ qua thành bụng và thành tử cung còn nguyên vẹn (không bao gồm việc mổ bụng lấy một thai ngoài tử cung, nằm trong ổ bụng, hay lấy một thai đã rơi một phần hay toàn bộ vào trong ổ bụng do vỡ tử cung).
2- Các trường hợp nào thì được chỉ định mổ lấy thai?
2.1. Chỉ định mổ lấy thai từ phía Mẹ
- Âm đạo có sẹo do phẫu thuật tạo hình, rách và khâu trong những lần sanh trước...
- Có vật cản trở ở đường sinh dục của mẹ (khối u ác hay condylom sùi).
- Cổ tử cung có sẹo do viêm loét, do đốt điện, khoét chóp, cắt cụt cổ tử cung hay cổ tử cung có khối u... làm cổ tử cung không xoá và mở được.
- Khối tiền đạo như u buồng trứng, u xơ tử cung.
2.2. Chỉ định mổ lấy thai từ phía Con
- Ngôi bất thường:
- Ngôi mặt cằm ngang và cằm sau
- Ngôi trán
- Ngôi ngang không thực hiện xoay thai
- Con so ngôi mông, ước lượng cân thai trên 3 kg
- Ngôi mông + một bất thường khác
- Thai có dị tật bẩm sinh
- Suy thai trong chuyển dạ
- Mẹ có nhiễm Herpes sinh dục đang tiến triển (đặc biệt là ở lần nhiễm đầu tiên)
- Mẹ nhiễm HIV.
2.3. Chỉ định mổ lấy thai từ cả Mẹ và Con
Với chỉ định mổ lấy thai trong những trường hợp này sẽ có lợi cho cả hai mẹ con. Đó là:
- Nhau tiền đạo trung tâm và phần lớn các trường hợp nhau tiền đạo bán trung tâm.
- Bất xứng đầu chậu.
- Các chống chỉ định của chuyển dạ sinh ngã âm đạo ví dụ vết mổ cũ.
và môt số chỉ định khác
Có thể tóm tắt lại các chỉ định của mổ lấy thai trong 4 chỉ định sau, đó 4 chỉ định thường gặp nhất của mổ lấy thai là: Mẹ có vết mổ cũ trên thân tử cung, ngôi mông, thai suy và sanh khó - chiếm 85% tổng số các trường hợp sanh mổ.
3. Những trường hợp nào không nên mổ lấy thai?
Nhưng trong một số trường hợp phải cân nhắc. Ví dụ: cuộc mổ có nguy cơ đe doạ tính mạng bà mẹ (như bà mẹ có bệnh phổi nặng), cũng không nên mổ lấy thai ở những thai có bất thường nhiễm sắc thể (trisomie 13 hay 18) hoặc thai có di tật bẩm sinh không thể sống được nếu được mổ lấy ra.
4. Phẫu thuật mổ lấy thai được tiến hành ra sao?
Đầu tiên, sản phụ sẽ được nhân viên y tế giải thích đầy đủ lý do phẫu thuật lấy thai, ký giấy cam đoan phẫu thuật. Sau đó, sẽ được thông đái, sát khuẩn thành bụng, trải khăn vô khuẩn sau khi đã được giảm đau.
Các bước tiến hành gồm có:
Thì 1. Mở bụng:
Có thể đường trắng giữa dưới rốn hoặc đường ngang trên mu.
Bộc lộ vùng mổ: chèn gạc, đặt van vệ.
Thì 2. Mở phúc mạc đoạn dưới tử cung.
Thì 3. Rạch ngang cơ tử cung đoạn dưới đến màng ối:
Mở đoạn dưới tử cung ở ngay giữa (lưu ý tránh chạm vào phần thai ở ngay dưới). Mở rộng vết rạch tử cung sang hai bên. Đường mở tử cung song song với đường mở phúc mạc đoạn dưới.
Đường rạch ngang đoạn dưới khoảng 8-10cm .
Thì 4. Lấy thai và rau:
Lấy thai: lấy đầu thai nếu là ngôi đầu, lấy chân thai hay mông thai nếu là các ngôi còn lại.
Dùng miếng gạc mỏng lau nhớt miệng trẻ.
Kẹp và cắt dây rốn.
Tiêm tĩnh mạch chậm (qua dây truyền) 10 đơn vị Oxytocin. Lấy rau bằng cách kéo dây rốn và ấn đáy tử cung qua thành bụng. Làm sạch buồng tử cung. Nong cổ tử cung nếu cần.
Kiểm tra và kẹp các mạch máu lớn đang chảy.
Thì 5. Khâu vết rạch tử cung và phúc mạc:
Khâu phục hồi lớp cơ tử cung bằng chỉ tiêu số 1. Có thể bằng mũi rời hay khâu vắt có khóa hay không có khóa. Mũi khâu lấy toàn bộ chiều dày lớp cơ tử cung.
Không nên khâu cả lớp nội mạc tử cung. Thông thường khâu một lớp là đủ. Nếu cần thì khâu vắt lớp thứ hai để cầm máu và che phủ lớp khâu thứ nhất.
Phủ phúc mạc đoạn dưới tử cung bắt buộc khi có nguy cơ nhiễm khuẩn.
Thì 6. Lau sạch ổ bụng, kiểm tra tử cung, phần phụ và các tạng xung quanh, đếm đủ gạc
Thì 7. Đóng thành bụng theo từng lớp.
Thì 8. Lấy máu và lau âm đạo.
Video mô phỏng kỹ thuật phẫu thuật mổ lấy thai:
5. Những tai biến có thể gặp trong mổ lấy thai
5.1. Về phía mẹ
5.1.1. Tai biến gần (xảy ra trong và sau khi mổ)
- Nhiễm trùng: thường gặp là nhiễm trùng vết mổ, nhiễm trùng đường tiết niệu
- Tai biến do phẫu thuật như chạm phải các cơ quan lân cận (bàng quang, ruột), khâu phải niệu quản, rò bàng quang – tử cung/âm đạo.
- Chảy máu nhiều, băng huyết trong hay sau mổ do đờ tử cung; chảy máu do rách đoạn dưới tử cung.
- Liệt ruột.
- Bung vết mổ, thoát vị thành bụng.
- Xuất huyết nội.
- Thuyên tắc tĩnh mạch, huyết khối.
- Tử vong cho mẹ: có thể do thuyên tắc mạch ối, chảy máu không cầm được hoặc do không có đủ máu khi người mẹ thuộc nhóm máu hiếm.
- Các tai biến do gây mê – hồi sức: có thể có những biến chứng do vô cảm như hội chứng hít (trong trường hợp gây mê nội khí quản); tụt huyết áp, nhức đầu sau mổ (trong trường hợp gây tê tủy sống), phản ứng thuốc (choáng phản vệ).
+ Gây mê nội khí quản
Gây mê nội khí quản mổ lấy thai
5.1.2.Tai biến xa
- Dính ruột, tắc ruột.
- Tắc ống dẫn trứng gây vô sinh thứ phát.
- Lạc nội mạc tử cung tại sẹo mổ lấy thai hay sẹo mổ thành bụng.
- Trong những lần mang thai sau, sẹo trên thân tử cung có thể bị nứt (nứt khi chưa vào chuyển dạ hoặc khi đã vào chuyển dạ)
- Trong những lần có thai sau, khả năng sẽ phải mổ lại tăng và nếu sinh ngã âm đạo phải giúp sanh bằng giác hút hoặc forceps để giảm nguy cơ nứt sẹo mổ cũ trên đoạn dưới tử cung...
5.2. Về phía con
- Thai nhi có thể bị ảnh hưởng bởi thuốc mê.
- Bị chạm thương trong khi phẫu thuật.
- Hít phải nước ối, đặc biệt nước ối có phân su.
- Trẻ sơ sinh do sinh mổ có nguy cơ suy hô hấp nặng (hội chứng chậm hấp thu dịch phổi) và đe dọa tính mạng do sự can thiệp khi mẹ chưa chuyển dạ, nhất là trẻ được can thiệp sinh mổ ở thời kỳ thai chưa đủ tháng (trước 39 tuần).
- Tử vong chu sinh (trong vòng 28 ngày sau khi sinh) ở trường hợp mổ lấy thai cao hơn so với sinh thường.
- Mổ lấy thai cũng làm gia tăng nguy cơ trẻ bị chết khi sanh ở lần sinh con tiếp theo (có thể tử cung bị sẹo do cuộc mổ lần trước không tạo điều kiện để bánh nhau bám tốt do đó việc cung cấp máu và chất dinh dưỡng nuôi bào thai không đầy đủ)...
Trên đây là những hiểu biết cơ bản về mổ lấy thai, các bậc cha mẹ nên cân nhắc và đặc biệt là nghe theo những lời khuyên và chỉ định của bác sỹ để có phương pháp sinh an toàn, tối ưu cho Mẹ và Con.
Nhận xét
Đăng nhận xét